Trong tuần qua, báo giá than nhiệt trên thị trường châu Âu giảm xuống dưới 115 USD/tấn. Lượng tồn kho cao tại các kho cảng ARA, sản lượng RES (nguồn năng lượng tái tạo) ngày càng tăng, lợi thế về chi phí hiện tại của sản xuất khí đốt so với đốt than, cũng như thời tiết dễ chịu ở châu Âu là những yếu tố sẽ gây áp lực lên các chỉ số.
Giá khí gas tại trung tâm TTF ở mức 380 USD/1.000 triệu m3 (gần như không thay đổi so với tuần trước).
Than nhiệt trị cao 6.000 của Nam Phi, sau khi tăng mạnh trong thời gian ngắn lên gần 105 USD/tấn vào giữa tuần, đã quay trở lại mức 100 USD/tấn vào hôm thứ 6. Việc bảo trì sắp tới trên tuyến đường sắt Transnet, dự kiến diễn ra từ ngày 11- 20 tháng 7, có thể hỗ trợ giá than trong tuần tới. Ngoài ra, những người tham gia thị trường cho biết nhu cầu từ người tiêu dùng Ấn Độ, bao gồm các nhà sản xuất xi măng và thép, đang được cải thiện.
Công ty khai thác mỏ Exxaro Resources của Nam Phi dự kiến nhà sản xuất điện Eskom sẽ tăng tiêu thụ than trong nửa cuối năm 2023, bù đắp cho sự sụt giảm trong nửa đầu năm nay.
Tại Trung Quốc, giá giao ngay than 5.500 NAR tại cảng Qinhuangdao tăng vọt 6 USD/tấn lên 118 USD/tấn do tiêu thụ cao hơn, lượng tồn kho than giảm và các công ty than Trung Quốc tăng giá dần theo lộ trình dài hạn.
Shenhua đã tăng báo giá cho tất cả các loại than lên gần 6 USD/tấn do có sự điều chỉnh giá. Người ta cũng dự kiến rằng các báo giá sẽ tiếp tục tăng khi người tiêu dùng phải bổ sung hàng dự trữ trước đợt tăng tải điện vào kỳ cao điểm mùa hè. Nhiều công ty khai thác mỏ đang chứng kiến sự gia tăng doanh số bán hàng và giảm lượng dự trữ.
Trung tâm Khí tượng Quốc gia Trung Quốc dự báo nhiệt độ trong tháng 7 sẽ vượt mức khoảng 1 – 2oC ở nhiều tỉnh thành khác nhau, đặc biệt là ở miền Bắc và miền Nam của đất nước. Đồng thời, sản lượng thủy điện sẽ vẫn ở mức thấp. Lượng tồn kho tại 9 cảng lớn của Trung Quốc giảm xuống còn 26 triệu tấn (giảm 1 triệu tấn so với tuần trước).
Than 5.900 GAR của Indonesia tăng 1 USD lên 89 USD/tấn khi các nhà sản xuất Indonesia đang cố gắng cắt giảm nguồn cung để hỗ trợ giá.
Than nhiệt tri cao 6.000 của Úc đã tăng mạnh lên 140 USD/tấn, được thúc đẩy bởi nhu cầu tốt hơn từ Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản và các nước châu Á khác.
Ngày 3/6, nhà chức trách Australia đưa ra dự báo giá trung bình của than NAR 6.000 kcal/kg sẽ giảm từ 184 USD/tấn vào năm 2023 xuống còn 121 USD/tấn vào năm 2025. Mức này được đánh giá là khá cao và dự kiến sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh của than, so với các nguồn năng lượng khác trong dài hạn. Giá trung bình than NAR 6.000 kcal/kg năm 2021 là 135 USD/tấn, trong khi năm 2020 có mức giá 58 USD/tấn.
Chỉ số than luyện kim của Úc giảm xuống 230 USD/tấn trong bối cảnh nguồn cung tăng và nhu cầu thu hẹp từ các nhà sản xuất thép, sau khi hoàn thành giai đoạn tái tích trữ hàng.
Nhà sản xuất thép Nhật Bản Nippon Steel và POSCO của Hàn Quốc đã đồng ý với nhà sản xuất Foxleigh của Úc về giá PCI biến động thấp quý 2 năm 2023 có mức giá FOB là 232 USD/tấn, tương đương giảm 37,50 USD/tấn hoặc 14% so với giá FOB 269,50 USD/tấn trong quý 1 năm 2023. Sự sụt giảm điểm chuẩn (benchmark) là do điều kiện thị trường thép xấu đi.
Nguồn: CAA, The Coal Hub
Biên dịch: Vincent Nguyen