Giá dầu đã giảm sau cuộc tấn công bằng tên lửa và máy bay không người lái của Iran vào Israel, làm dấy lên kỳ vọng rằng sự leo thang của cuộc “chiến tranh bóng tối” sẽ khiến giá dầu tăng.
Giống như các vụ tai nạn công nghiệp lớn, những biến động cực độ của giá dầu, có thể tăng – giảm đột biến luôn là kết quả của nhiều yếu tố tác động chứ không phải do một nguyên nhân duy nhất.
Sự tăng giá đột biến thường xảy ra khi chu kỳ kinh doanh đã đến giai đoạn trưởng thành; lượng hàng tồn kho thấp hơn nhiều so với mức bình thường; năng lực sản xuất dự phòng thấp; và có sự gián đoạn thực tế hoặc bị đe dọa đối với hoạt động sản xuất.
Tuy nhiên, trong trường hợp này, sự leo thang đang diễn ra tại một thị trường được cung cấp đầy đủ, cả về khối lượng hàng tồn kho gần mức trung bình dài hạn và nguồn năng lực sản xuất nhàn rỗi dồi dào.
Các thương nhân đã kết luận rằng Iran sẽ không gặp bất kỳ rủi ro nào trong hoạt động xuất khẩu của mình; Hoa Kỳ sẽ không mạo hiểm để giá dầu tăng cao đáng kể trong năm bầu cử; và Hoa Kỳ sẽ hạn chế những phản ứng tiếp theo của Israel.
Khi nhận thức về rủi ro chiến tranh giảm xuống, giá cả và sự khác biệt về giá (giữa các hợp đồng tương lai, có ngày giao hàng khác nhau) đã giảm về mức trước khủng hoảng, với các nguyên tắc cơ bản về sản xuất, tiêu dùng và hàng tồn kho được khẳng định lại.
ĐIỀU TIẾT THỊ TRƯỜNG
Tồn kho thương mại dầu thô và các sản phẩm lọc dầu tại các nền kinh tế tiên tiến trong Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (Organisation for Economic Cooperation and Development - OECD) ước tính vào khoảng 2,735 triệu thùng trong tháng 3.
Tồn kho thương mại ở mức khoảng 95 triệu thùng (độ lệch chuẩn -3% hoặc -0,61) dưới mức trung bình theo mùa 10 năm trước đó, dựa trên phân tích dữ liệu từ Cơ quan Thông tin Năng lượng Hoa Kỳ (U.S. Energy Information Administration - EIA).
Mức thâm hụt đã tăng từ 51 triệu thùng (độ lệch chuẩn 2% hoặc -0,34) vào tháng 12 năm 2023 nhưng chỉ tăng rất nhẹ so với một năm trước khi nó ở mức 74 triệu thùng (độ lệch chuẩn -3% hoặc -0,44).
Thị trường toàn cầu đang dần dần thắt chặt, và hàng tồn kho vẫn tương đối thoải mái, có thể giải quyết mọi gián đoạn sản xuất trong ngắn hạn.
Theo EIA, Ả Rập Saudi và các thành viên OPEC khác ở Trung Đông ước tính có hơn 4 triệu thùng/ngày công suất sản xuất không hoạt động trong tháng 3.
Công suất chưa sử dụng ở mức cao nhất kể từ đại dịch coronavirus năm 2020-2021 và trước đó là cuộc suy thoái sau cuộc khủng hoảng tài chính 2009-2011.
Với lượng hàng tồn kho dồi dào và công suất dự phòng dồi dào, thị trường dường như không phải chuẩn bị cho một đợt tăng giá lớn và kéo dài.
Sản lượng bên ngoài OPEC ⁺ dự kiến sẽ tăng trưởng mạnh trong năm nay, đặc biệt là ở Hoa Kỳ, Canada, Guyana và Brazil, đủ để bù đắp cho mức tăng tiêu thụ vào năm 2024.
Tăng trưởng sản xuất mạnh mẽ có khả năng đảm bảo rằng hàng tồn kho vẫn ở mức hợp lý trong mọi tình huống, trừ những kịch bản cực đoan nhất về xung đột ở Trung Đông.
GIÁ VÀ CHÊNH LỆCH GIÁ
Giá dầu Brent theo hợp đồng tương lai tháng trước được điều chỉnh theo tỉ lệ lạm phát đạt mức trung bình 85 đô la Mỹ/thùng trong tháng 3, khiến mức giá này gần như ngang bằng với mức giá trung bình dài hạn kể từ năm 2000.
Thị trường hợp đồng tương lai đã chuyển sang trạng thái bù-trừ tích cực (Sự bù-trừ xảy ra khi hợp đồng tương lai ngắn hạn của một hàng hóa đang giao dịch ở mức cao hơn so với các hợp đồng tương lai dài hạn), với hợp đồng giao dịch tháng trước ở mức chênh lệch trung bình gần 4 đô la Mỹ/thùng so với hợp đồng giao hàng 06 tháng sau đó.
Khoản chênh lệch này nằm ở phân vị thứ 91, ngụ ý rằng các nhà giao dịch kỳ vọng hàng tồn kho sẽ cạn kiệt hơn nữa trong thời gian tới, nhưng nguồn cung dự kiến sẽ vẫn ổn định trong dài hạn.
Ả Rập Saudi và các đồng minh OPEC⁺ của họ dự kiến sẽ duy trì việc cắt giảm sản lượng cho đến tháng 6 năm 2024 để làm cạn kiệt thêm hàng tồn kho và hỗ trợ giá trước khi tăng dần sản lượng trong nửa cuối năm và sang năm 2025.
DẦU TỒN KHO CỦA MỸ
Ngược lại với phần còn lại của thế giới, nơi dữ liệu về hàng tồn kho chỉ được cung cấp với độ trễ vài tháng, nếu có, ở Hoa Kỳ, EIA công bố dữ liệu tồn kho với độ trễ chưa đến một tuần.
Với một số lý do chính đáng, các nhà giao dịch có xu hướng sử dụng dữ liệu tần suất cao về hàng tồn kho của Hoa Kỳ làm thước đo cho sự cân bằng sản xuất-tiêu thụ trên thị trường toàn cầu rộng lớn hơn.
Tồn kho dầu thô thương mại của Mỹ gần như trùng khớp với mức trung bình theo mùa 10 năm trước đó vào ngày 12 tháng 4 và có rất ít thay đổi trong 03 tháng qua.
Tồn kho xung quanh điểm giao hàng cho hợp đồng tương lai NYMEX tại Cushing ở Oklahoma là 13 triệu thùng (độ lệch chuẩn -29% hoặc -0,88) dưới mức trung bình theo mùa trong vòng 10 năm.
Sự thâm hụt này giải thích cho sự bù trừ mạnh mẽ của cả giá dầu thô Mỹ và giá dầu Brent theo hợp đồng tương lai, nhưng nó đã được thu hẹp trong 03 tháng qua.
Tồn kho dầu thô thương mại của Mỹ phù hợp với tình hình thị trường chỉ thắt chặt hơn một chút so với mức trung bình dài hạn, chứ không phải các điều kiện dẫn đến giá tăng đột biến và kéo dài.
KHÔNG CÓ THẢM HỌA
Chu kỳ trả đũa giữa Iran và Israel có khả năng leo thang không kiểm soát, khi mỗi chính phủ đều cố gắng khôi phục khả năng răn đe và thể hiện quyết tâm với những người quan tâm trong nước và quốc tế.
Xung đột có thể leo thang đến mức làm gián đoạn hoạt động sản xuất và vận chuyển tàu chở dầu từ Iran và các quốc gia khác quanh vùng Vịnh. Các nhà giao dịch không bỏ qua rủi ro mà coi nó như một rủi ro “hệ lụy” ít có khả năng xảy ra hơn là một kịch bản trung tâm.
Từ chối cảnh tượng thảm họa về việc Iran mất sản lượng dầu và đóng cửa eo biển Hormuz là hợp lý vì những kịch bản cực đoan này đã được dự đoán rất nhiều lần nhưng đã không trở thành hiện thực trong 30 năm qua.
Nguy cơ mất mát sản xuất và xuất khẩu đột ngột không phải là con số 0, nhưng cũng không đủ lớn để dẫn đến việc giá dầu tăng mạnh nhằm hạn chế tiêu dùng, tăng lượng tồn kho lớn hơn và tạo thêm công suất dự phòng để giảm thiểu tác động.
Trừ khi và cho đến khi mối đe dọa đối với sản xuất và xuất khẩu của vùng Vịnh trở nên cụ thể hơn, thay vì chỉ là hoạt động đầu cơ lâu năm, thì mức giá và chênh lệch giá hiện tại có vẻ phù hợp với một thị trường chỉ có dấu hiệu thắt chặt vừa phải hơn bình thường.