Tuần trước, giá than nhiệt trên thị trường châu Âu giảm mạnh xuống còn 95 USD/tấn. Các chỉ số chịu áp lực về các yếu tố như: giảm đáng kể sản lượng nhiệt điện than của Đức; tăng tỷ trọng năng lượng tái tạo; và giảm giá khí đốt.
Giá khí đốt tại trung tâm TTF giảm xuống còn 307 USD/1.000 m3 (giảm 73 USD/1.000 m3 so với tuần trước) do lo ngại về nguồn cung khí đốt dễ tăng quá mức sau khi dòng chảy của Na Uy được khôi phục. Trong khi đó, các cơ sở lưu trữ khí đốt đã điền kín khoảng 80%.
Loại than nhiệt trị cao CV 6.000 của Nam Phi giảm xuống dưới 95 USD/tấn trong bối cảnh nhu cầu giảm ở châu Âu, với việc bảo trì theo lịch trình của mạng lưới đường sắt không tác động vào các báo giá than.
Hàng tồn kho tại nhà ga RBCT của Nam Phi đứng ở mức 3,6 triệu tấn, thấp hơn nhiều so với 5 triệu tấn, được coi là lượng dự trữ tiêu chuẩn, trước khi thực hiện bảo trì tuyến đường sắt Hành lang phía Bắc trong 10 ngày, nối các mỏ của khu vực Mpumalanga với nhà ga RBCT. Tuyến Hành lang phía Bắc sẽ đóng cửa để bảo trì từ ngày 11/7 đến ngày 20/7, với việc xuất khẩu qua RBCT dự kiến sẽ giảm xuống 3,5 triệu tấn vào tháng 7 (giảm 0,6 triệu tấn so với tháng 6/2023), trước khi phục hồi lên mức 5 triệu tấn vào tháng 8.
Tại Trung Quốc, giá giao ngay loại than 5.500 NAR tại cảng Qinhuangdao vẫn không đổi ở mức 118 USD/tấn, phản ánh mức tiêu thụ cao hơn cũng như việc tiếp cận đỉnh điểm nóng mùa hè mặc dù lượng dự trữ cao. Hầu hết các công ty than không mong đợi sự sụt giảm đáng kể của báo giá trong tương lai gần, mặc dù giá đã điều chỉnh giảm nhẹ ở các khu vực Nội Mông, Sơn Tây (Shanxi) và vùng Thiểm Tây (Shaanxi).
Tiêu thụ than tại 6 nhà máy nhiệt điện ven biển lớn nhất tăng lên 871.000 tấn (tăng thêm 55 nghìn tấn so với tuần trước), trong khi tồn kho của họ giảm 0,26 triệu tấn xuống còn 14 triệu tấn trong tuần. Lượng tồn kho tại 9 cảng lớn nhất của Trung Quốc đạt tổng cộng 26,1 triệu tấn (tăng 0,1 triệu tấn so với tuần trước).
Công ty điện lực nhà nước Trung Quốc – China Southern Power Grid báo cáo rằng phụ tải lưới điện ở 5 tỉnh (Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Quý Châu và Hải Nam) đạt mức cao nhất mọi thời đại là 226 GW, tăng 3 GW so với mức kỷ lục năm ngoái do nhu cầu điều hòa không khí tăng trong thời tiết nóng. Con số này cũng được dự báo sẽ đạt 245 GW vào mùa hè này, cho thấy mức tăng trưởng 10% tiêu thụ điện năng so với cùng kỳ năm 2022.
Loại than 5.900 GAR của Indonesia tăng lên đạt mức 90 USD/tấn. Giá than nhiệt trị cao và thấp được hỗ trợ bởi nhu cầu tăng từ Trung Quốc và Ấn Độ, cũng như việc cắt giảm nguồn cung của một số nhà sản xuất than ở Indonesia.
Theo Bayan Resources cho biết họ dự kiến sẽ sản xuất 45-48 triệu tấn than vào năm 2023, tăng 5-8 triệu tấn, tương đương 12-20%, so với năm 2022, được thúc đẩy bởi nhu cầu ở châu Á – Thái Bình Dương. Nếu dự báo được thực hiện, Bayan Resources sẽ trở thành công ty phát triển nhanh nhất trong 10 năm qua.
Than nhiệt trị cao loại CV 6.000 của Úc giảm xuống dưới 130 USD/tấn. Trong khi đó, than nguyên liệu nhiệt trị trung bình được tăng giá do nguồn cung hạn chế cũng như nhu cầu được cải thiện từ Trung Quốc và Ấn Độ.
Chỉ số than luyện kim Australia tăng nhẹ lên mức trên 230 USD/tấn. Tuy nhiên, nguồn cung trên thị trường giao ngay đang tăng lên khi các nhà sản xuất thép giảm nhu cầu sau khi kết thúc giai đoạn phục hồi lại lượng dự trữ. Ngoài ra, nguồn cung dự kiến sẽ tăng hơn nữa, bao gồm cả việc đưa vào vận hành mỏ Maxwell mới gần đây ở New South Wales (với công suất lên tới 3,5 triệu tấn trong giai đoạn đầu tiên), đã bắt đầu vận chuyển than luyện kim đến Cảng Newcastle.
Nhà sản xuất thép Nhật Bản Nippon Steel và nhà cung cấp than Úc Foxleigh đã đồng ý mức giá cho LV PCI quý 3 năm 2023 ở mức 185 USD/tấn theo hợp đồng FOB (Giảm 47 USD/tấn so với quý 2 năm 2023).
Nguồn: The Coal Hub
Biên dịch: Vincent Nguyen