Sản xuất và sử dụng năng lượng tái tạo “xanh”, sạch đang gia tăng. Than, nhiên liệu hóa thạch bẩn nhất, đang chết dần. Hoặc đấy là đường đi của dòng chuyển đổi năng lượng. Tuy nhiên, theo Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA), thực tế là sản lượng, tiêu thụ than và khối lượng vận chuyển than bằng đường biển toàn cầu tất cả đều ở mức cao nhất mọi thời đại vào năm 2023.
Than chưa “chết” trên toàn cầu, chỉ giảm nhiều ở phương Tây. Nó vẫn còn sống và đang phát triển ở châu Á - và kết quả là vẫn đang phát triển trên toàn cầu. Đó là tin xấu đối với khí thải nhà kính, nhưng là tin tốt cho các chủ sở hữu của các tàu chở hàng rời vận chuyển than, đặc biệt là khi Mỹ xuất khẩu nhiều sản lượng khai thác của mình hơn thông qua các chuyến đi đường dài đến châu Á.
"Nhu cầu vận chuyển than là một yếu tố hỗ trợ tốt cho thị trường hàng rời khô trong nửa đầu năm nay", công ty môi giới tàu BRS cho biết hôm thứ 5 ngày 17/8. "Mặc dù nhu cầu than ở châu Âu và Bắc Mỹ tiếp tục xu hướng giảm, châu Á đã tạo ra một sự bù đắp đáng kể khi nhu cầu tiếp tục tăng."
Khối lượng than vận chuyển bằng đường biển được dự đoán sẽ đạt 1.335.000 triệu (tấn-hải lý) trong năm nay, đứng đầu kỷ lục của năm 2019 là 1.331.000 triệu (tấn-hải lý), theo IEA cho biết trong dự đoán triển vọng giữa năm được công bố gần đây.
BRS ước tính rằng nhu cầu vận chuyển than được đo bằng tấn-hải lí (khối lượng nhân với khoảng cách) đã tăng 9% trong tháng 1 đến tháng 7 so với cùng kỳ năm ngoái.
Kỷ lục tiêu thụ và sản xuất
IEA ước tính nhu cầu than toàn cầu sẽ đạt 8,39 tỷ tấn trong năm nay, tăng nhẹ so với mức cao nhất mọi thời đại của năm ngoái. 3/4 lượng than khai thác sẽ được tiêu thụ ở Trung Quốc, Ấn Độ và các nước Đông Nam Á. Riêng Trung Quốc dự kiến sẽ chiếm 56% lượng tiêu thụ toàn cầu.
"Khi châu Âu cắt giảm sản xuất nhiệt điện than để phù hợp với quá trình chuyển đổi năng lượng xanh, Trung Quốc và Ấn Độ đã tiếp tục xây dựng thêm các nhà máy có công suất ở mức vượt xa tốc độ cho ngừng hoạt động của các nhà máy điện than hiện tại", công ty môi giới tàu SSY cho biết hôm thứ 2 ngày 21/8.
SSY lưu ý rằng 86% nhà máy điện than của Trung Quốc dưới 20 năm tuổi và 52% từ 10-20 năm tuổi. "Nếu xem tuổi thọ trung bình của một nhà máy điện than là 40 năm, việc loại bỏ toàn bộ nhà máy điện than như mục tiêu của châu Âu đặt ra khó có thể được thực hiện", SSY nói.
Về mặt nguồn cung, IEA dự kiến sản lượng than toàn cầu sẽ đạt mức cao mới trong năm nay, đứng đầu kỷ lục của năm ngoái là 8,63 tỷ tấn, trong đó Trung Quốc, Ấn Độ và Indonesia chiếm hơn 70% tổng số.
Theo BRS, tăng sản lượng nội địa ở Ấn Độ đã làm giảm nhập khẩu than của nước này 7% so với cùng kỳ năm ngoái từ tháng 1 đến tháng 7 xuống còn 134 triệu tấn. BRS cho biết sự sụt giảm chủ yếu ảnh hưởng đến nhu cầu đối với than Indonesia được chở trên các tàu hàng rời cỡ Capesize (tàu có sức chở khoảng 180.000 tấn hoặc DWT).
Ngược lại, sản lượng than nội địa trong năm nay của Trung Quốc ở mức cao đang được bổ sung bởi lượng nhập khẩu nhiều hơn, một ưu thế cho vận tải hàng rời khô bằng đường biển.
Theo BRS cho biết, Trung Quốc đã nhập khẩu 211,8 triệu tấn than trong 7 tháng đầu năm 2023, tăng 77% so với cùng kỳ năm ngoái. Indonesia là nhà cung cấp than bằng đường biển lớn nhất của Trung Quốc, tiếp theo là Nga và Úc.
Xuất khẩu của Mỹ chiếm tỷ trọng sản xuất cao hơn
Mỹ từng là nhà sản xuất than lớn nhất thế giới nhưng đã tụt hạng. Sản lượng hiện tại chưa bằng một nửa so với mức đỉnh năm 2008. Mặc dù vậy, xuất khẩu của Mỹ hiện đang tăng lên. Nhu cầu than trong nước yếu hơn (do các quy định khắt khe về môi trường và giá khí đốt tự nhiên rẻ) khiến phần lớn lượng than sản xuất được bán ra nước ngoài.
Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) dự đoán Mỹ sẽ xuất khẩu 90 triệu tấn than trong năm nay, tăng 16% so với năm 2022. Xuất khẩu dự kiến sẽ tăng hơn nữa, lên 94 triệu tấn, vào năm 2024.
EIA dự kiến 22% sản lượng than của Mỹ sẽ được xuất khẩu vào năm tới. Năm 2008, khi sản lượng than của Mỹ đạt đỉnh, chỉ có 7% sản lượng được xuất khẩu.
CEO các doanh nghiệp than Mỹ tập trung cho xuất khẩu
Triển vọng bán hàng quốc tế đã được nhấn mạnh bởi các giám đốc điều hành (CEO) của các nhà sản xuất than niêm yết tại Hoa Kỳ trong các cuộc đàm thoại Hội nghị quý II trong những tuần gần đây.
Ông Paul Lang, Giám đốc điều hành của Arch Resources, cho biết khoảng 20% sản lượng của công ty ông được bán ở Bắc Mỹ, với 80% lượng than được bán qua thị trường đường biển – trong đó có một nửa đến châu Á, phần còn lại đến châu Âu và Nam Mỹ.
"Những gì chúng tôi đã thấy vẫn đang tiếp diễn, lượng tăng đáng kể sẽ đến châu Á," ông Lang nói. "Cách đây không lâu, chúng tôi đã có khối lượng nhỏ ở mức tối thiểu đi vào thị trường châu Á."
Theo ông Deck Slone, phó chủ tịch chiến lược cấp cao của Arch Resources, "Chúng tôi tập trung rất nhiều sự chú ý vào việc xây dựng sự hiện diện ở châu Á. Đó là nơi mà sự tăng trưởng sẽ diễn ra."
Ông Lang nói thêm: "Nếu cuối cùng chúng tôi phải làm vậy, chúng tôi đã sẵn sàng cho xuất khẩu 100%".
Ông Mitesh Thakkar, CEO của Consol Energy, cho biết lượng xuất khẩu chiếm 78% doanh thu định kỳ quý II của Consol. Consol đang theo đuổi "một sự thay đổi chiến lược theo hướng tăng trưởng nhu cầu xuất khẩu", ông nói.
Bob Brathwaite, phó chủ tịch tiếp thị cấp cao của Consol, cho biết: "Chúng tôi đã vận chuyển hàng hóa cho các nhà tiêu thụ mới ở Ấn Độ, ở Trung Quốc và cả ở Indonesia".
Ông Joseph Craft, CEO của Alliance Resource Partners, cho biết: "Chúng tôi hoàn toàn tập trung vào thị trường quốc tế".
Theo Jim Grench, CEO của Peabody Energy, "Chúng tôi thấy thị trường đường biển là thị trường tăng trưởng có nhu cầu đối với cả than luyện kim và than nhiệt. Như chúng tôi đã tuyên bố nhiều lần - và nó không thay đổi - trọng tâm của chúng tôi là thị trường đường biển. "
Sự chậm trễ của kênh đào tác động tích cực đối với giá cước vận chuyển
Hầu hết than xuất khẩu của Mỹ sang châu Á được chất lên tàu cỡ Panamaxes (tàu chở hàng rời có trọng tải 60.000 - 99.000 DWT) và có tuyến vận chuyển qua kênh đào Panama.
Năm nay, tình trạng hạn hán ở Panama đang gây ra sự chậm trễ và cần lập lại tuyến đi trên diện rộng. Sự thiếu hiệu quả này làm cho xu hướng xuất khẩu của Mỹ thậm chí còn có dấu hiệu tích cực hơn đối với giá cước vận tải cỡ tàu Panamax, bởi vì sự đình trễ và việc lập lại tuyến hành trình làm tăng năng lực tàu tốt hơn.
Công ty môi giới tàu Braemar báo cáo hôm thứ Ba ngày 22/8 rằng có 80 tàu chở hàng rời đang chờ để đi qua kênh đào, tăng từ 59 tàu được báo cáo vào cuối tháng 7.
Braemar hy vọng những con tàu hàng rời quay trở về từ châu Á cần tránh qua kênh đào Panama và thay vào đó sẽ chạy ba-lát (không hàng) qua kênh đào Suez hoặc Mũi Hảo Vọng. "Những chuyến chạy tuyến dài với nước dằn như vậy sẽ thắt chặt nguồn cung đội tàu ở Đại Tây Dương và hỗ trợ [giá cước] trong những tháng tới, đặc biệt là khi nhu cầu về vận chuyển ngũ cốc ở Vịnh Hoa kỳ tăng lên vào tháng 9".
Sự chuyển hướng tuyến đi liên quan đến kênh đào cũng làm nới rộng thời gian chở hết tải (đầy hàng) cho những con tàu hàng rời cỡ Panamax.
BRS đã báo cáo vào đầu tháng này rằng "các tàu chở than rời khỏi Đại Tây Dương đang đi chệch khỏi tuyến qua kênh đào Panama ưa thích của họ do thời gian quá cảnh qua kênh ngày càng tăng. Bất kỳ sự thay đổi nào đối với các tuyến đường thương mại hàng đầu này sẽ tăng số ngày hành trình từ khoảng 35 ngày khi đi qua Kênh đào Panama lên 50 ngày khi qua Kênh đào Suez để chở than tại cảng Burnside của Hoa Kỳ [Louisiana] về dỡ hàng ở Rizhao, Trung Quốc.
Nguồn: OilPrice.com
Biên dịch: Vincent Nguyen