Sau thông báo trước đó của Sea-Intelligence vào ngày 21 tháng 3, cung cấp thông tin chi tiết về kết quả năm tài chính 2023, công ty phân tích dữ liệu hiện đang nghiên cứu sâu về lợi nhuận hoạt động cụ thể trong quý 4 năm ngoái.
Trong quý 4 năm 2023, các hãng tàu báo cáo khoản lỗ EBIT tổng cộng là 1,44 tỷ đô la Mỹ. Trong số các công ty lớn, Maersk ghi nhận khoản lỗ 920 triệu đô la Mỹ, tiếp theo là Hapag-Lloyd (252 triệu đô la Mỹ), ONE (248 triệu đô la Mỹ), Yang Ming (109 triệu đô la Mỹ), ZIM (54 triệu đô la Mỹ) và Wan Hải (41 triệu đô la Mỹ).
So sánh những số liệu này trên cùng một nhóm hãng tàu (không bao gồm ONE do dữ liệu lịch sử hạn chế) và kết hợp Evergreen và HMM, cả hai đều đạt được lợi nhuận hoạt động trong quý 4 năm 2023, quý này đánh dấu khoản lỗ EBIT tổng hợp cao nhất từ năm 2012 đến năm 2023. Kỷ lục trước đó là vào quý 4 năm 2015 với khoản lỗ 455 triệu đô la Mỹ.
Để phân tích lợi nhuận trên mỗi TEU được vận chuyển, Hình 1 minh họa xu hướng EBIT/TEU từ năm 2010 đến năm 2023, nêu bật những mức chưa từng có được quan sát thấy trong giai đoạn đại dịch 2021-2022. Hình 2 tập trung vào những diễn biến trong năm 2023, cắt trục y ở mức +/- 300 đô la Mỹ/TEU để rõ ràng.
"Cho đến nay, chúng tôi có dữ liệu EBIT/TEU cho 5 hãng tàu, trong đó COSCO không có trong số những hãng thường xuyên báo cáo về cả EBIT và sản lượng toàn cầu của họ. EBIT/TEU của Maersk là -148 đô la Mỹ/TEU là EBIT/TEU âm lớn nhất của họ trong giai đoạn phân tích,” Alan Murphy, Giám đốc điều hành của Sea-Intelligence chỉ ra.
"Đối với Hapag-Lloyd, khoản lỗ EBIT/TEU của họ là -84 đô la Mỹ/TEU nhỏ hơn mức EBIT/TEU âm duy nhất của họ là -239 đô la Mỹ/TEU trong quý 4 năm 2014. Đối với ONE, EBIT/TEU âm trong quý 4 năm 2023 của họ là -80 đô la Mỹ/TEU là lần đầu tiên của họ. Mặt khác, HMM đã ghi nhận mức EBIT/TEU dương là 34 đô la Mỹ/TEU trong quý 4 năm 2023,” Murphy giải thích.